Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn

Hình đại diện Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
Hình đại diện Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn

Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên lợn (Porcine Reproductive and Respiratory syndrome – PRRS) là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây tỷ lệ chết cao (20 – 100%) cho đàn lợn thuộc mọi lứa tuổi. Bệnh còn có tên khác là bệnh Tai xanh, bệnh PRRS (là tên gọi tắt của cụm từ tiếng Anh).

Bệnh Tai xanh nguy hiểm vì nó ức chế sự đáp úng miễn dịch đối với vacxin dịch tả lợn, mặt khác nó gây chết đại thực bào nên tạo điều kiện cho các mầm bệnh khác xâm nhập vào cơ thể bệnh súc và phát triển. Đó là lý do tại sao ở vùng không được tiêm vacxin đầy đủ và môi trường ô nhiễm nặng Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp gây thiệt hại nhiều nhất cho đàn lợn.

Bệnh do vi rút gây ra.

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng của Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở đàn lợn phụ thuộc vào độc lực các chủng vi rút gây bệnh, trạng thái miễn dịch của bệnh súc và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Thời gian ủ bệnh 3 – 5 ngày. Bệnh lan rất nhanh, trong vòng vài ba ngày cả đàn đã bị bệnh, 1 – 2 tuần lây nhiễm cả vùng. Biểu hiện cả đàn bỏ ăn, sốt cao liên tục (41 – 42°C), da đỏ, nằm li bì, lười vận động, tím da tai. Tại các cơ sở có mật độ chăn nuôi cao và ô nhiễm, bệnh lây càng nhanh và lợn cũng ốm nặng hơn. Các bệnh thứ phát có thể xảy ra là viêm phổi (do Haemophillus, Pasteurella, Streptococcus, Salmonella), viêm mũi, viêm đường hô hấp trên (do Bordetella, Pasteurella), tiêu chảy (do Salmonella, E.Coli) và Chlamydia. Nguy hiểm nhất là ghép thêm bệnh Dịch tả lợn. Bệnh có thể lan truyền theo chiều gió thổi trong vòng 3km cho nên diễn biến dịch bệnh thường xảy ra theo hình thức cuốn chiếu.

Tùy thuộc vào lứa tuổi lợn, bệnh có thể xảy ra như sau:

Đối với lợn nái, lợn hậu bị

Trường hợp quá cấp lợn nái có thể chết đột ngột (1 – 2%) với triệu chứng phù phổi hoặc viêm thận, tỷ lệ chết thường rơi vào các nái đang chửa kỳ II. Có lẽ một mặt do lợn mẹ sốt cao làm cho bào thai chết lưu, mặt khác nái chửa có sức đề kháng kém nhất trong chu kỳ nuôi nên chúng dễ chết.

bệnh Tai xanh

bệnh Tai xanh

Trường hợp cấp tính lợn nái bệnh có những triệu chứng lâm sàng khác nhau như sốt kéo dài (có thể 7 – 10 ngày hoặc hơn), bỏ ăn, lười uống nước. Tím da tai, bụng, chân, cơ quan sinh dục ngoài. Viêm da đóng vẩy. Sẩy thai (1 – 3%) trong giai đoạn chửa từ ngày 21 – 109, đẻ non (1 – 20%), đẻ thai gỗ, thai chết lưu, chết yểu. Đặc biệt lợn nái thường đẻ sớm 3 – 7 ngày với bào thai còn nguyên nhưng đã chết. Nói chung, khi bị bệnh Tai xanh nái chửa dễ sẩy thai không thể giữ thai được. Triệu chứng điển hình của nái đẻ là mất sữa và viêm vú. Một số giảm năng suất đẻ như không động dục trở lại hoặc động dục nhưng phối nhiều lần không chửa, đẻ ít con hoặc ít sữa. Một số có biểu hiện thần kinh như mất điều hòa vận động, đi thành vòng tròn hoặc nằm nghiêng và co giật. Vì thế, một số người nhầm lợn bị bệnh Phù đầu. Lợn nái càng già thì khả năng nhiễm PRRS càng cao. Nếu tích cực điều trị sau 7 – 10 ngày lợn bệnh sẽ khỏe dần.

Sau khi khỏi bệnh, trên 90% lợn nái trở lại tham gia sinh sản bình thường. Tuy nhiên, một số vẫn mang trùng và trục trặc trong sinh sản nên cần tiếp tục loại khỏi đàn.

Theo nhiều tài liệu, lợn nái được đánh giá là rối loạn sinh sản khi phối giống thất bại hoặc sẩy thai 2 lần liên tiếp, tỷ lệ thai chết khô và chết tươi của một ổ từ 10% trở lên, thời gian chờ phối sau cai sữa quá 120 ngày. Rối loạn sinh sản có thể kéo dài 4 – 8 tháng trước khi trở lại bình thường.

Như vậy, lợn nái có chửa và nuôi con bị bệnh nặng hơn lợn nái không tham gia sinh sản. Do đó theo chúng tôi để giảm thiểu tổn thất trong vùng dịch, không phối giống cho lợn động dục 1 – 2 chu kỳ. Đợi hết dịch mới tiến hành phối nhưng phải sử dụng tinh đực giống đảm bảo chất lượng.

Đối với lợn đực

Lợn đực có sức đề kháng đối với bệnh Tai xanh cao nhất trong các loại lợn, với tỷ lệ chết thấp. Lợn bệnh biểu hiện sốt trong thời gian ngắn, bỏ ăn, lười vận động, một số khó thở. Giảm tính hãng, lười nhảy. Chất lượng tinh kém (tinh dịch loãng, mật độ tinh trùng giảm, tăng lượng tinh trùng kỳ hình) nên phối không đậu thai. Mặt khác, vi rút Tai xanh có thể truyền qua tinh và đó là nguyên nhân làm cho bệnh lan rộng. Bởi vậy, trong vùng dịch Tai xanh người ta cấm bán tinh lợn: Sau dịch chỉ sử dụng những đực giống đảm bảo chất lượng tinh. Thực tế cho thấy sau dịch Tai xanh tại một số địa phương bà sử dụng đực nhảy trực tiếp không kiểm tra chất lượng tinh gây vô sinh ở đàn nái.

Đối với lợn con theo mẹ

Lợn mẹ đã bị bệnh Tai xanh sớm muộn đàn con theo mẹ cũng bị và đa phần lợn con sẽ chết. Lợn bệnh biểu hiện sốt, bỏ bú, ủ rũ, gầy yếu, chân cong (đứng choãi chân), đi xiêu vẹo, thở nhanh, khó thở (mũi luôn khụt khịt), da có nhiều đám phồng rộp. Sưng mí mắt kèm viêm kết mạc, da quanh mắt thâm quầng cho nên người ta còn gọi hiện tượng này là “Lợn đeo kính”. Thực tế cho thấy ngoài vùng da quanh hai mắt, da vùng hậu môn cũng bị thâm. Một số đàn tiêu chảy dùng kháng sinh điều trị không khỏi. Một số có thể sống sót nhưng gầy, chậm lớn, cho nên tốt nhất cần hủy cả đàn lợn con khi đã bị bệnh.

Đối với lợn cai sữa, lợn choai và lợn thịt

Lợn bệnh ủ rũ, lười vận động. Cả đàn nằm một chỗ, giảm hoặc bỏ ăn và bỏ uống, chỉ ăn và uống khi được đuổi dậy nhưng chỉ ít một. Sốt cao (trên 40°C), da đỏ, xuất huyết da tai. Da vùng quanh hai mắt và quanh hậu môn thâm. Một số khó thở, da có thể nhợt nhạt. Một số viêm da dạng tăng tiết dịch, sau khi điều trị khỏi các vẩy khô trên dâ dân dần mất đi. Tiêu chảy phân lẫn máu. Lông cứng, giảm tăng trọng. Một số biểu hiện thần kinh có triệu chứng giống bệnh Phù đầu, đa phần số này chết và chết rất nhanh. Tỷ lệ chết dao động trong khoảng 12 – 20% do viêm phổi và các bệnh bội nhiễm khác, đặc biệt ở đàn chưa được tiêm phòng vacxin dịch tả và vùng ô nhiễm nặng tỷ lệ chết còn cao hơn. Lợn càng to thì khả năng điều trị khỏi càng cao.

Sau khi đàn lợn hết sốt ăn trở lại, một số con (hoặc cả đàn) biểu hiện viêm da toàn thân. Có ý kiến cho là lợn bị viêm da do vi rút cầu vòng (Circle virus), ý kiến khác là do vi khuẩn Tụ cầu. Những ca bệnh này điều trị cho hiệu quả cao.

Thông thường trong vùng dịch bệnh xảy ra qua 3 giai đoạn chủ yếu sau:

Giai đoạn 1 (đầu ổ dịch): sẩy thai hàng loạt ở nái chửa (trước 107 ngày chửa). Giai đoạn này kéo dài 1 – 3 tuần.

Giai đoạn 2 (giữa ổ dịch): Hàng loạt nái đẻ sớm (trước 3 – 7 ngày), thai chết lưu, thai gỗ hoặc sinh con chết yểu. Giai đoạn này kéo dài 8 – 12 tuần và bị nặng nề nhất (cho nên người ta ví như cơn bão tràn qua).

Giai đoạn 3 (cuối ổ dịch):

– Đa phần lợn nái sống sót (trên 90% tổng đàn) trở lại sinh sản bình thường (sau 2 – 4 tháng).

– Một số mang trùng gây bệnh trong cơ sở.

Bệnh có thể bùng phát trở lại khi điều kiện vệ sinh phòng dịch kém. Trong những đợt dịch vừa qua ở miền Bắc thấy bệnh có xu hướng xảy ra vào vụ xuân hè. Năm sau nếu tái phát bệnh xảy ra ở đàn lợn con theo mẹ chủ yếu là viêm da; ở đàn lợn choai viêm da, viêm đường hô hấp và tiêu chảy, đàn lợn sốt nhưng có thể vẫn ăn uống bình thường. Do đàn lợn nái có miễn dịch nên bệnh xảy ra nhẹ hơn.

Bệnh tích

Phụ thuộc vào bệnh thứ phát. Phổi viêm hoại tử và thâm nhiễm đặc trưng bởi những đám chắc, đặc trên các thùy phổi. Thùy bị bệnh có màu xám đỏ, có mủ và đặc chắc (nhục hóa), Mặt cắt thùy bệnh lồi ra, khô. Nhiều trường hợp viêm phế quản phổi hóa mủ ở mặt dưới thùy đỉnh. Ngoài ra, còn thấy thận xuất huyết đinh ghim, hạch amidan sưng, sung huyết, não sung huyết, hạch màng treo ruột xuất huyết, loét van hồi manh tràng.

Chẩn đoán

Dựa vào kết quả nghiên cứu dịch tễ, triệu chứng lâm sàng, mổ khám bệnh tích và đặc biệt là kết quả xét nghiệm của các cơ quan chuyên ngành.

Trong chẩn đoán lâm sàng bệnh Tai xanh cần để ý các yếu tố sau:

– Khi trong đàn có tỷ lệ sẩy thai, đẻ non trên 8%, thai chết trên 20%, lợn con trong tuần tuổi đầu tiên chết trên 25%.

– Sưng mí mắt và viêm kết mạc ở lợn con dưới 3 tuần tuổi.

Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh Giả dại, Cúm lợn, bệnh Truyền nhiễm đường hô hấp do Coronavirus, Viêm não và cơ tim, bệnh do Parvovirus, do Cytomegalovirus, do Circovims, Lepto, Viêm não và cơ tim, Dịch tả lợn, Nhiễm trùng huyết, Fumosin.

Ngoài ra, do lợn con có triệu chứng tiêu chảy nên cần phân biệt với bệnh Phó thương hàn, lợn to chết đột ngột nên phân biệt với bệnh Tụ huyết trùng, lợn mọi lứa tuổi khó thở nên phân biệt với bệnh Viêm phổi truyền nhiễm, lợn có triệu chứng thần kinh nên phân biệt với bệnh Phù đầu lợn con.

Khống chế dịch bệnh

Mặc dù bệnh Tai xanh do vi rút gây ra nhưng lợn chết chủ yếu do các bệnh bội nhiễm như Liên cầu khuẩn, Haemophilus, Viêm phổi truyền nhiễm và một số bệnh thứ phát như nêu ở trên, cho nên có thể hạn chế thiệt hại do bệnh Tai xanh bằng những phác đồ khống chế thích họp.

Trước hết thực hiện triệt để Quyết định số 80/2008/QĐ – BNN ngày 15 tháng 7 năm 2008 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Theo kinh nghiệm chống dịch của các địa phương, áp dụng những biện pháp dưới đây sẽ hạn chế thiệt hại do dịch gây ra.

1/ Những việc cần làm ngay khi dịch Tai xanh xảy ra:

– Khoanh vùng dịch. Trong vùng dịch không xuất nhập lợn vào ra, không cho vận chuyển lợn đi qua vùng dịch, không được mổ bán thịt lợn.

– Cần tiêm ngay vacxin dịch tả lợn cho toàn đàn, nếu đàn lợn chưa được tiêm (cả đàn nái đang có chửa) và cho đàn con mới đẻ trước khi cho bú sữa đầu. Để thực hiện biện pháp này khi lợn đẻ ra lau sạch lợn con, bấm nanh rồi tiến hành tiêm vacxin như qui trình, nhốt riêng đợi lợn nái ra nhau xong mới thả đàn con vào cho bú. 3 – 4 tuần sau tiêm nhắc lại vacxin dịch tả lần hai (đối với đàn con, tốt nhất tiêm lần hai vào lúc 24 – 25 ngày tuổi). Lưu ý cần cử cán bộ kỹ thuật trực đẻ cả đêm, nếu không có điều kiện dùng thuốc chứa Prostaglandin F2α (F2 – propharm, Han – prost, Lutalyse) tiêm cho nái chửa trước 11 giờ sáng lợn sẽ đẻ vào ban ngày (trong vòng 36 giờ sau khi tiêm).

– Đặc biệt lưu ý trong vùng đang bị dịch không được tiêm vacxin tai xanh, nếu không bệnh sẽ xảy ra nặng nề hơn.

– Thực hiện tốt vệ sinh thú y, phun sát trùng chuồng trại và khu vực chăn nuôi 2 – 3 lần/tuần (Cloramin T, Virkon, Iodine, …), kết hợp rắc vôi bột dưới gầm chuồng lợn, hành lang, khu vực xung quanh chuồng nuôi, đường đi. Xử lý triệt để phân và các chất thải.

Không khai thác tinh lợn trong vùng dịch cũng như bỏ qua lợn nái 1 – 2 chu kỳ không phối, vì ổ dịch có thể kéo dài 3 tháng hoặc hơn mà sẩy thai là một trong những triệu chứng thường gặp trong bệnh Tai xanh. Mặt khác, lợn nái không chửa có sức chống chọi với dịch bệnh tốt hơn lợn nái chửa và đây là một trong những kinh nghiệm giữ đàn nái tốt. Biện pháp này tuy nuôi có tốn cám nhưng kinh tế hơn so vói việc gây đàn giống mới.

– Lùi việc tiêm sắt, thiến, bấm số tai, cắt đuôi trong thời gian dịch cấp tính (đầu ổ dịch).

2/ Đối với vùng lần đầu xảy ra bệnh Tai xanh còn ở diện hẹp, cần hủy ngay những ca nhiễm bệnh đầu tiên bằng cách đào hố rắc vôi bột chôn kỹ, tốt nhất là đốt.

3/ Lợn con theo mẹ hoặc mới cai sữa bị bệnh cũng tiêu hủy ngay vì tỷ lệ chết rất cao, những con sống sót còi cọc chậm lớn.

4/ Đối với đàn tái nhiễm hoặc dịch xảy ra diện rộng:

Hủy những con mắc bệnh nặng. Số còn lại trong đàn điều trị hỗ trợ nhằm mục đích:

– Tăng cường sức đề kháng và giải độc cho bệnh súc. Biện pháp này rất quan trọng, kiên trì thực hiện và nó quyết định thành bại trong khống chế dịch tai xanh.

– Khống chế bệnh thứ phát (đường hô hấp, đường ruột), điều trị theo triệu chứng.

Công tác hộ lý

Cho đàn lợn ăn thức ăn dễ tiêu hóa, rau xanh tươi, tích cực đuổi lợn vận động (vì khi vận động lợn mới chịu ăn, uống), làm mát cho lợn, nuôi giãn mật độ kết bợp phun sát trùng, rắc vôi bột xuống gầm chuồng, cống rãnh, lối đi. Một trong những biện pháp sát trùng đơn giản nhưng hiệu quả là đốt bồ kết lẫn trấu ở 2 đầu chuồng và dùng quạt thổi vào xông cả chuồng nuôi. Tất nhiên, cần kết hợp dùng hóa chất sát trùng sàn và cống rãnh mới sát trùng được triệt để.

– Đối với ca sốt li bì, đặc biệt là lợn nái, cần tiếp nước đường hoặc điện giải với liều 12ml/kgP/ngày. Vị trí tiếp nước là bên hông trái của lợn. Thực hiện bằng cách để chai dịch truyền ở vị trí cao, sau khi vệ sinh sát trùng vùng da tiếp nước (để lợn ở tư thế nằm hoặc đứng), một tay kéo da lên, một tay đâm kim tiếp nước xuyên qua da vào khoang bụng lợn (không phải vào dạ dày lợn), bao giờ thấy dịch truyền chảy tự do vào khoang bụng là được. Nếu có kỹ thuật tiếp nước trực tiếp vào tĩnh mạch bụng sẽ cho hiệu quả cao hơn. Lưu ý tiếp nước vào cuối buổi chiều, để ban ngày lợn bệnh cảm thấy đói và khát nên tự ăn, uống được là tốt nhất. Không nên tiếp nước khi lợn bị viêm phổi nặng, trong trường hợp này ngoài kháng sinh kết hợp tiêm bắp Furo – pharm để giảm phù.

Dùng thuốc điều trị hỗ trợ

Cách 1:

Cho cả đàn ăn/uống các thuốc dưới đây:

– Kháng sinh Pharamox (1g/20kgP/lần, 2 lần/ngày hoặc 1g/lít nước) hoặc Riarm – flor (10g/20kgP/ngày hoặc 10g/2 lít nước uống). Liên tục 5 ngày để khống chế vi khuẩn bội nhiễm.

– Para – C mix (10g/66kgP/lần, 2 lần/ngày hoặc 10g/3,3 lít nước uống) hoặc Phartigum B (1g/10kgP/lần, 2 lần/ngày hoặc 2g/lít nước), liên tục 5 – 7 ngày để giảm đau, hạ sốt.

– Dizavit – plus, 1g/10kgP/lần, 2 lần/ngày hoặc 2g/lít nước. Dùng 5 – 7 ngày để bù điện giải và tăng sức đề kháng.

Đối với cá thể có lâm sàng tiêm thêm các loại thuốc sau:

– Tiêm bắp một trong những kháng sinh Bocinvet-L.A hoặc Bocin – pharm (1ml/10kgP, 1 lần/ngày), tiêm 2 – 3 mũi hoặc Oxyvet – L.A (1ml/10kgP), tiêm 2 mũi cách nhau 72 giờ hoặc Combi – pharm 1ml/7,5 – 15kgP, 1 lần/ngày, tiêm 3 ngày để khống chế vi khuẩn bội nhiễm. Mũi đầu tiên tiêm cho cả đàn, sau đó chỉ tiêm cho con ốm. Lưu ý không được lạm dụng kháng sinh.

– Tiêm bắp Phar – nalgin C hoặc Pharti – P.A.I để giảm đau và hạ sốt.

– Nếu lợn bênh khó thở cần tiêm thêm Phar – pulmovet (1 – 2ml/10kgP/ngày). Có thể hòa lẫn Phar – pulmovet với Phar – nalgin c ngay trước khi tiêm.

Cách 2 (đối với trường hợp lợn viêm da lở loét nhưng vẫn còn ăn uống):

– Tiêm bắp một trong các kháng sinh sau: Oxyvet – L.A (1ml/10kgP/lần, 21ần cách nhau 3 ngày); phối hợp 1ml Lincocin hoặc 2ml Lincoseptin với 1ml Dexa – pharm và 1ml Phar – nalgin c (trộn lẫn ngay trước khi tiêm) cho 10 kg thể trọng, 1 lần/ngày, tiêm 3 ngày; Combi – pharm (1ml/7,5 – 15kg thể trọng, 1 lần/ngày, tiêm 3 ngày).

– Tiêm bắp Urotropin, 10 – 20ml/con, 1 lần/ngày.

– Kết hợp bôi kháng sinh Oxyvet – L.A hoặc dung dịch Xanhmethylen lên chỗ da lở loét, 1 lần/ngày.

Chú ý:

– Nái chửa dễ bị sẩy thai không cứu được đàn con, chỉ cứu được lợn mẹ, trong trường hợp cần thiết gây sẩy thai nhân tạo để cứu lợn mẹ (F2 – propharm, Han – prost hoặc Lutalyse). Sau khi điều trị khỏi tốt nhất chuyển đàn nái qua mục đích thương phẩm.

– Sau khi lợn ăn trở lại cần dùng men tiêu hóa sống như Pharselenzym hoặc Pharbiozym và thuốc giải độc gan bổ thận (Pharboga T) 5 – 7 ngày, lợn sẽ khỏe dần lên.

– Nếu đàn lợn bị ghép bệnh Viêm phổi truyền nhiễm có thể thay kháng sinh Pharamox bằng thuốc CRD – pharm (liều dùng, cách dùng như Pharamox).

– Trong điều trị đặc biệt sử dụng các thuốc tăng cường sức đề kháng, giải độc như tiêm Catosal, Phar – complex C, vitamin B1, vitamin C; cho uống Phar – C vimix, …

Ngoài thuốc sát trùng, cần phun Etox – pharm để diệt ruồi, muỗi (1ml/lít nước), vì vi khuẩn liên cầu sống ở trong cơ thể ruồi ít nhất 5 ngày mà các thuốc sát trùng không diệt được ruồi nên cũng không diệt được vi khuẩn liên cầu.

Phòng bệnh

– Hiệu quả vacxin phòng bệnh Tai xanh chưa cao, chưa ổn định, hiện nay đang được các nhà khoa học nghiên cứu. Tùy theo điều kiện của từng cơ sở, có thể tiêm cả cho đàn nái và cả đàn con hoặc chỉ tiêm cho đàn nái.

– Thực hiện tốt vệ sinh thú y, tiêu độc khử trùng, tiêu hủy, chôn lấp lợn chết đúng quy định. Tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin phòng bệnh Dịch tả lợn, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, Viêm phổi truyền nhiễm. Kết quả tổng kết các đợt dịch cho thấy nơi nào tiêm phòng kém (đặc biệt vacxin dịch tả), môi trường ô nhiễm nặng, mật độ nuôi dày lợn bị bênh Tai xanh nói riêng, các bệnh khác nói chung trầm trọng và thiệt hại nặng nề hơn.

– Sau điều trị khỏi hoặc trong vùng chớm dịch cần cho cả đàn (đặc biệt đàn nái, đực sinh sản) ăn/uống Pharamox một đợt 5 ngày/tháng, liên tục 2 – 3 đợt để khống chế vi khuẩn bội nhiễm, trong đó có Liên cầu khuẩn.

– Cho nái chửa ăn/uống men Pharselenzym với liều 10g/200kgP, 1 lần/ngày, liên tục 30 ngày trước khi đẻ sẽ nâng cao sức sống cũng như trọng lượng của đàn lợn con.

Ngoài ra, cần áp dụng một số biện pháp sau:

– Cải thiện chất lượng thức ăn. Chăm sóc nuôi dưỡng tốt.

– Khi bắt lợn hậu bị về nuôi cách ly ít nhất 30 ngày, kiểm tra huyết thanh âm tính mới phối giống.

– Hạn chế khách tham quan.

– Tiếp tục loại những lợn nái trục trặc trong sinh sản (phối liên tiếp 2 lần không đậu, tiếp tục sẩy thai hoặc đẻ non, sinh con chết yểu).

– Sau đợt dịch cần kiểm tra tinh dịch của đực giống, nếu chất lượng tinh không đảm bảo hoặc các cơ sở không có điều kiện kiểm tra tốt nhất trong thời gian đầu nên sử dụng tinh lợn đực của các cơ sở an toàn, nếu không lợn nái lại động dục gây thiệt hại kinh tế.

Theo kết quả nghiên cứu cho thấy bổ sung P – glucan với liều 80 – 120 ppm (80 – 120g/ 1000kg thức ăn) cho lợn từ cai sữa đến xuất chuồng làm giảm mức độ lây nhiễm của vi rút bệnh Tai xanh (Hồ Thị Nga và Trần Thị Dân, 2006).